Pages

Thứ Ba, 20 tháng 5, 2014

Giới Thiệu Tác Giả

Tác Giả: Ông Vũ Hồng Quân

- Sinh ngày 03/01/1936 tại Hà Nội.

- Quê quán: Xóm Chùa Nhĩ, xã Thanh Liệt, huyện Thanh Trì, Hà Nội.

- Hộ khẩu thường trú: Xã Thanh Liệt, huyện Thanh Trì, Hà Nội.

1- Lịch sử bản thân và quá trình công tác

- Từ năm 1936 đến năm 1946: Còn nhỏ ở với mẹ và các anh chị ruột (Cha

mất trước khi sinh vài ngày).

- Từ năm 1946 đến tháng 5/1959: Bắt đầu được học chữ, hết lớp 3 trường

làng thì học lớp Nhất trường Hàng Than. Trong khoảng thời gian từ 1951 - 1953

học trường Bưởi - Chu Văn An (nay là trường cấp III Chu Văn An). Sau đó về

nhà làm nông nghiệp.

- Từ tháng 6/1959 đến tháng 1/1960: Học lớp Kế toán Kiến thiết cơ bản

tại Yên Viên.

- Từ tháng 1/1960 đến tháng 6/1960: Làm kế toán tại Trạm Cung cấp, Cục

Kiến thiết cơ bản, Bộ Công nghiệp.

- Từ tháng 7/1960 đến tháng 3/1967: Làm kế toán tại Đoàn xe Cục Vật tư,

Bộ Công nghiệp nặng.

- Từ tháng 4/1967 đến tháng 6/1967: Cán bộ thi đua Công ty Vận tải, Bộ

Công nghiệp nặng.

- Từ tháng 7/1967 đến tháng 8/1968: Làm kế toán trưởng Đoàn xe IV,

Cục Vận chuyển, Bộ Công nghiệp nặng.

- Từ tháng 9/1968 đến tháng 12/1968: Làm kế toán tại Cục Vận chuyển,

Bộ Công nghiệp nặng.

- Từ năm 1968 đến năm 1974: Học đại học tại chức ngành Tài vụ kế toán

Công nghiệp, trường Cán bộ Tài chính kế toán Ngân hàng Trung ương.

- Từ tháng 1/1969 đến tháng 5/1969: Làm tại phòng Chế độ Cục Vận

chuyển, Bộ Công nghiệp.

- Từ tháng 6/1969 đến tháng 8/1987: Làm kế toán tại Công ty Vật tư, Bộ

Điện và Than sau đó là Bộ Điện lực.

- Từ tháng 9/1987 đến tháng 5/1992: Làm kế toán thống kê tại kho

Thượng Đình, Ban quản lý các công trình điện, Công ty Điện lực I.

- Từ tháng 6/1992 đến nay (2014): Nghỉ hưu. Tham gia công tác xã hội ở

địa phương: thành viên Ban Biên tập lịch sử xã Thanh Liệt, tham gia Mặt trận

Tổ quốc, Hội khuyến học họ Vũ, tham gia các CLB thơ…

2- Công tác Đoàn thanh niên

Từ năm 1965 - 1975 làm Bí thư Chi đoàn; sau đó là Phó Bí thư Đoàn Cục

Vật tư, ủy viên Ban chấp hành Đoàn Bộ.

3- Khen thưởng

- Huân chương Kháng chiến hạng Ba: “Đã có công lao trong cuộc kháng

chiến chống Mỹ, cứu nước” (Nghị quyết số 626 KT/HĐNN do Chủ tịch Hội

đồng Nhà nước Trường Chinh ký ngày 21/3/1985).

- Kỷ niệm chương “Thợ điện vẻ vang”.

- Huy chương vì sự nghiệp xây dựng và phát triển Công nghiệp Việt Nam.

Ngoài ra, còn được tặng thưởng nhiều Bằng khen, Giấy khen các cấp

trong suốt quá trình công tác.

Thành tích đặc biệt (được khen thưởng Huân chương kháng chiến): Trong

thời kỳ chiến tranh chống Mỹ cam go, ác liệt, Bộ Công nghiệp nặng thành lập 4

đoàn xe chuyên chở gạo chi viện cho miền Nam, giao tại Bến Thủy (Nghệ An).

Tuyến đi từ Lạng Sơn vào Bến Thủy thường là đường rừng, gọi là đường bò lăn,

quán dắt, qua nhiều cửa tử: cầu Bố (Thanh Hóa), Khoa Trường, Khe nước lạnh

(Tĩnh Gia), Hoàng Mai, cầu Bùng (Diễn Châu), là những nơi địch bắn pháo suốt

ngày đêm. Với cương vị Kế toán trưởng Đoàn xe, ủy viên Ban Chấp hành Đoàn

thanh niên Bộ, ông đã nêu gương và hoàn thành tốt nhiệm vụ: dẫn nhiều đoàn

xe, chở nhiều gạo cho tiền tuyến. Có những chuyến đi đường tắt, 3 ngày phải

nhịn đói, phải đi xin khoai, cơm nhà dân ăn, trong khi xe chở đầy năm tấn gạo.

Trận ác liệt nhất là ở Cầu Giát (Quỳnh Lưu), bom Mỹ rải khắp mặt đường làm

mỗi phía tắc 5, 6 chục xe. Trong tình thế nguy cấp phải giải phóng xe trước khi

máy bay Mỹ quay lại, không sợ hiểm nguy, ông gương mẫu kêu gọi các đoàn

viên, thanh niên, lái xe… lấy cuốc cào bùn làm thành 2 vệt bánh xe, mở đường

cho xe đi qua, đưa gạo kịp thời cho tiền tuyến.

4- Công tác lịch sử và tham gia các hoạt động tại địa phương

- Từ tháng 4/1996 là thành viên Ban Lịch sử xã Thanh Liệt.

Được biết đến như một người viết sử làng, ông luôn bền bỉ, say mê hoạt

động sưu tầm, lưu giữ tư liệu lịch sử về cuộc đời, sự nghiệp các danh nhân tại xã

Thanh Liệt như: Đô hồ Đại vương Phạm Đô Tu (467 - 545) và nhà tiên triết Chu

Văn An (1292 - 1370), đã cung cấp nhiều tư liệu cần thiết, quý giá xây dựng các

chương trình, các phóng sự ý nghĩa do Đài truyền hình TW và Đài truyền hình

HN thực hiện.

Ông là chủ biên cuốn Lịch sử Truyền thống cách mạng xã Thanh Liệt,

xuất bản năm 1998.

- Tham gia công tác sử liệu của huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội.

- Làm Phó Chủ tịch Hội Người cao tuổi xã Thanh Liệt.

- Làm ủy viên Mặt trận Tổ quốc xã Thanh Liệt 2 khóa.

- Tham gia Ban Tổ chức Hội làng và Đội tế lễ nhiều kỳ, đặc biệt đã có

đóng góp chính trong việc xây dựng kịch bản khôi phục, phát triển Hội làng

truyền thống xã Thanh Liệt trong những năm gần đây.

5- Công tác khuyến học

- Xây dựng Chi Hội khuyến học Họ Vũ, là Chi Hội hoạt động thường niên

trong xã Thanh Liệt, góp phần khích lệ tinh thần ham học hỏi của nhiều thế hệ

con cháu trong dòng họ Vũ, kế thừa và phát huy truyền thống hiếu học của cha

ông. Hội đã nhận được nhiều sự quan tâm của các cấp chính quyền.

- Năm 2005 tại Đại hội biểu dương Gia đình hiếu học thành phố Hà Nội

lần thứ nhất do Hội Khuyến học Hà Nội tổ chức: Gia đình ông Vũ Hồng Quân

được chọn là một trong số 112 gia đình hiếu học tiêu biểu được biểu dương của

thành phố Hà Nội .

6- Hoạt động sáng tác thơ

Là nhà thơ tài hoa, sáng tác nhiều thể loại thơ, nhưng đặc biệt yêu thích

thể thơ Đường luật, hội viên CLB thơ Tô Giang, hội viên CLB UNESCO Thơ

Đường Việt Nam, có nhiều bài được đăng trong các tập thơ:

- Thơ Đường Việt Nam, do CLB UNESCO Thơ Đường Việt Nam tuyển

chọn, Nhà xuất bản Văn nghệ ấn hành năm 2007.

- Hương cổ điển - thơ truyền thống nhiều thể loại, Nhà Xuất bản Văn hóa

dân tộc ấn hành năm 2006 do nhà thơ Hoài Yên sưu tầm, tuyển chọn.

- Bút xưa - tuyển tập thơ đường luật Việt Nam 20 năm hồi phục (1990 -

2010), Nhà xuất bản Thời đại ấn hành năm 2011 do nhà thơ Hoài Yên chủ biên.

- Có nhiều bài trong hầu hết các tập thơ Thanh Trì từ năm 1998 đến nay.

- In tập thơ Chân quê của riêng cá nhân gồm 116 bài thơ, năm 2001.

Từ cuối năm 2013 là Hội viên Hội Thi đàn Việt Nam.

Thứ Sáu, 16 tháng 5, 2014

Đề đình Lý Nhân

Thôn Trung đình Lý dựng Nhâm Thân

Tam giáp xây nền đặt Lý Nhân

Kiến tạo vọng thờ ngài bản thổ

Trùng tu tôn kính đức linh thần

Bốn mùa tế lễ lưu kim cổ

Sáu xóm tâm thành nguyện cách tân

Lễ nghĩa khơi nguồn văn hóa mới

Phát huy truyền thống của làng Nhân./.

                                           Ngày 01/01/2001

Đêm trắng

                              (Kính tặng người vợ tảo tần)

Chúng mình yêu nhau

Từ thuở cháo rau

Nay con

Nay cháu

Bằng đầu

Mọi việc nhà

Trên vai em tất cả

Em mỏi mòn, rời rã

Anh vô tích sự đã nhiều

Nay anh về hưu

Lại càng vô tích sự

Thơ và lịch sử

Anh có biết ít nhiều

Anh lao vào việc đó

Đỡ em được bao nhiêu?

Nhưng tình yêu lại càng thắm thiết

Anh muốn chứng minh

Để em được biết

Nên đặt tình yêu lên một đĩa cân

Nhưng cân vẫn thăng bằng như thế

Bởi tình yêu là phi vật thể

Em ơi!

                                         Đêm 01/4/2000

Viếng Cụ Trần Tuyết Hữu

                                    (vợ cụ Sáu)

                           Mất ngày 20/11 Canh Thìn (15/12/2000)

Dưới vòm đai thụ Tĩnh Tâm Trai

Phút chốc ra đi khóm bạch nhài

Hậu trường nâng khăn tình sớm tối

Tiền đường đàm đạo nghĩa hôm mai

Tàn y hãy giữ nguyên hơi ấm

Cổ kính xin đừng để bóng phai

Một nén tâm hương xin kính viếng

Phải chăng số mệnh đã an bài./.

                          Ngày 15/12/2000

Ngẫu hứng

Tiếp điện thoại xong lại phơi rơm

Mới hay thơ phú vẫn cần cơm

Nếu thơ thôi được cơm và áo

Chắc sẽ thanh tao, rất có hồn./.

                              Ngày 08/3/2000

Một góc trung thu

                                      Cảm xúc khi xem buổi ti vi phát về quận Đống Đa tổ chức

                                         đêm trung thu cho các em lang thang cơ nhỡ

Đêm trung thu ở Quận

Với các em khó khăn

Vừa vui vừa cảm động

Một tối quên nhọc nhằn

Các em vui phá cỗ

Và được cho cả đèn

Mai lang thang hè phố

Đèn cất đâu? Các em!

                                        Ngày 24/9/1999 (15/8 AL)

Tự Họa Bài “Thơ Là Duyên Nợ”

Tôi định tuyên ngôn dứt nợ thơ

Nhiều bài gửi họa nối đường tơ

Lại vương lại vấn, còn hoài bão

Còn nhớ, còn thương, lại ước mơ

Những tưởng thi đàn đà đóng chặt

Nào hay văn các mới cài hờ

Chắc là nghiệp chướng còn duyên nợ

Xin tạ lời vàng bạn họa thơ.

                            Ngày 15/06/1999