Tác Giả: Ông Vũ Hồng Quân
- Sinh ngày 03/01/1936 tại Hà Nội.
- Quê quán: Xóm Chùa Nhĩ, xã Thanh Liệt, huyện Thanh Trì, Hà Nội.
- Hộ khẩu thường trú: Xã Thanh Liệt, huyện Thanh Trì, Hà Nội.
1- Lịch sử bản thân và quá trình công tác
- Từ năm 1936 đến năm 1946: Còn nhỏ ở với mẹ và các anh chị ruột (Cha
mất trước khi sinh vài ngày).
- Từ năm 1946 đến tháng 5/1959: Bắt đầu được học chữ, hết lớp 3 trường
làng thì học lớp Nhất trường Hàng Than. Trong khoảng thời gian từ 1951 - 1953
học trường Bưởi - Chu Văn An (nay là trường cấp III Chu Văn An). Sau đó về
nhà làm nông nghiệp.
- Từ tháng 6/1959 đến tháng 1/1960: Học lớp Kế toán Kiến thiết cơ bản
tại Yên Viên.
- Từ tháng 1/1960 đến tháng 6/1960: Làm kế toán tại Trạm Cung cấp, Cục
Kiến thiết cơ bản, Bộ Công nghiệp.
- Từ tháng 7/1960 đến tháng 3/1967: Làm kế toán tại Đoàn xe Cục Vật tư,
Bộ Công nghiệp nặng.
- Từ tháng 4/1967 đến tháng 6/1967: Cán bộ thi đua Công ty Vận tải, Bộ
Công nghiệp nặng.
- Từ tháng 7/1967 đến tháng 8/1968: Làm kế toán trưởng Đoàn xe IV,
Cục Vận chuyển, Bộ Công nghiệp nặng.
- Từ tháng 9/1968 đến tháng 12/1968: Làm kế toán tại Cục Vận chuyển,
Bộ Công nghiệp nặng.
- Từ năm 1968 đến năm 1974: Học đại học tại chức ngành Tài vụ kế toán
Công nghiệp, trường Cán bộ Tài chính kế toán Ngân hàng Trung ương.
- Từ tháng 1/1969 đến tháng 5/1969: Làm tại phòng Chế độ Cục Vận
chuyển, Bộ Công nghiệp.
- Từ tháng 6/1969 đến tháng 8/1987: Làm kế toán tại Công ty Vật tư, Bộ
Điện và Than sau đó là Bộ Điện lực.
- Từ tháng 9/1987 đến tháng 5/1992: Làm kế toán thống kê tại kho
Thượng Đình, Ban quản lý các công trình điện, Công ty Điện lực I.
- Từ tháng 6/1992 đến nay (2014): Nghỉ hưu. Tham gia công tác xã hội ở
địa phương: thành viên Ban Biên tập lịch sử xã Thanh Liệt, tham gia Mặt trận
Tổ quốc, Hội khuyến học họ Vũ, tham gia các CLB thơ…
2- Công tác Đoàn thanh niên
Từ năm 1965 - 1975 làm Bí thư Chi đoàn; sau đó là Phó Bí thư Đoàn Cục
Vật tư, ủy viên Ban chấp hành Đoàn Bộ.
3- Khen thưởng
- Huân chương Kháng chiến hạng Ba: “Đã có công lao trong cuộc kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước” (Nghị quyết số 626 KT/HĐNN do Chủ tịch Hội
đồng Nhà nước Trường Chinh ký ngày 21/3/1985).
- Kỷ niệm chương “Thợ điện vẻ vang”.
- Huy chương vì sự nghiệp xây dựng và phát triển Công nghiệp Việt Nam.
Ngoài ra, còn được tặng thưởng nhiều Bằng khen, Giấy khen các cấp
trong suốt quá trình công tác.
Thành tích đặc biệt (được khen thưởng Huân chương kháng chiến): Trong
thời kỳ chiến tranh chống Mỹ cam go, ác liệt, Bộ Công nghiệp nặng thành lập 4
đoàn xe chuyên chở gạo chi viện cho miền Nam, giao tại Bến Thủy (Nghệ An).
Tuyến đi từ Lạng Sơn vào Bến Thủy thường là đường rừng, gọi là đường bò lăn,
quán dắt, qua nhiều cửa tử: cầu Bố (Thanh Hóa), Khoa Trường, Khe nước lạnh
(Tĩnh Gia), Hoàng Mai, cầu Bùng (Diễn Châu), là những nơi địch bắn pháo suốt
ngày đêm. Với cương vị Kế toán trưởng Đoàn xe, ủy viên Ban Chấp hành Đoàn
thanh niên Bộ, ông đã nêu gương và hoàn thành tốt nhiệm vụ: dẫn nhiều đoàn
xe, chở nhiều gạo cho tiền tuyến. Có những chuyến đi đường tắt, 3 ngày phải
nhịn đói, phải đi xin khoai, cơm nhà dân ăn, trong khi xe chở đầy năm tấn gạo.
Trận ác liệt nhất là ở Cầu Giát (Quỳnh Lưu), bom Mỹ rải khắp mặt đường làm
mỗi phía tắc 5, 6 chục xe. Trong tình thế nguy cấp phải giải phóng xe trước khi
máy bay Mỹ quay lại, không sợ hiểm nguy, ông gương mẫu kêu gọi các đoàn
viên, thanh niên, lái xe… lấy cuốc cào bùn làm thành 2 vệt bánh xe, mở đường
cho xe đi qua, đưa gạo kịp thời cho tiền tuyến.
4- Công tác lịch sử và tham gia các hoạt động tại địa phương
- Từ tháng 4/1996 là thành viên Ban Lịch sử xã Thanh Liệt.
Được biết đến như một người viết sử làng, ông luôn bền bỉ, say mê hoạt
động sưu tầm, lưu giữ tư liệu lịch sử về cuộc đời, sự nghiệp các danh nhân tại xã
Thanh Liệt như: Đô hồ Đại vương Phạm Đô Tu (467 - 545) và nhà tiên triết Chu
Văn An (1292 - 1370), đã cung cấp nhiều tư liệu cần thiết, quý giá xây dựng các
chương trình, các phóng sự ý nghĩa do Đài truyền hình TW và Đài truyền hình
HN thực hiện.
Ông là chủ biên cuốn Lịch sử Truyền thống cách mạng xã Thanh Liệt,
xuất bản năm 1998.
- Tham gia công tác sử liệu của huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội.
- Làm Phó Chủ tịch Hội Người cao tuổi xã Thanh Liệt.
- Làm ủy viên Mặt trận Tổ quốc xã Thanh Liệt 2 khóa.
- Tham gia Ban Tổ chức Hội làng và Đội tế lễ nhiều kỳ, đặc biệt đã có
đóng góp chính trong việc xây dựng kịch bản khôi phục, phát triển Hội làng
truyền thống xã Thanh Liệt trong những năm gần đây.
5- Công tác khuyến học
- Xây dựng Chi Hội khuyến học Họ Vũ, là Chi Hội hoạt động thường niên
trong xã Thanh Liệt, góp phần khích lệ tinh thần ham học hỏi của nhiều thế hệ
con cháu trong dòng họ Vũ, kế thừa và phát huy truyền thống hiếu học của cha
ông. Hội đã nhận được nhiều sự quan tâm của các cấp chính quyền.
- Năm 2005 tại Đại hội biểu dương Gia đình hiếu học thành phố Hà Nội
lần thứ nhất do Hội Khuyến học Hà Nội tổ chức: Gia đình ông Vũ Hồng Quân
được chọn là một trong số 112 gia đình hiếu học tiêu biểu được biểu dương của
thành phố Hà Nội .
6- Hoạt động sáng tác thơ
Là nhà thơ tài hoa, sáng tác nhiều thể loại thơ, nhưng đặc biệt yêu thích
thể thơ Đường luật, hội viên CLB thơ Tô Giang, hội viên CLB UNESCO Thơ
Đường Việt Nam, có nhiều bài được đăng trong các tập thơ:
- Thơ Đường Việt Nam, do CLB UNESCO Thơ Đường Việt Nam tuyển
chọn, Nhà xuất bản Văn nghệ ấn hành năm 2007.
- Hương cổ điển - thơ truyền thống nhiều thể loại, Nhà Xuất bản Văn hóa
dân tộc ấn hành năm 2006 do nhà thơ Hoài Yên sưu tầm, tuyển chọn.
- Bút xưa - tuyển tập thơ đường luật Việt Nam 20 năm hồi phục (1990 -
2010), Nhà xuất bản Thời đại ấn hành năm 2011 do nhà thơ Hoài Yên chủ biên.
- Có nhiều bài trong hầu hết các tập thơ Thanh Trì từ năm 1998 đến nay.
- In tập thơ Chân quê của riêng cá nhân gồm 116 bài thơ, năm 2001.
Từ cuối năm 2013 là Hội viên Hội Thi đàn Việt Nam.
Thứ Ba, 20 tháng 5, 2014
Thứ Sáu, 16 tháng 5, 2014
Đề đình Lý Nhân
Thôn Trung đình Lý dựng Nhâm Thân
Tam giáp xây nền đặt Lý Nhân
Kiến tạo vọng thờ ngài bản thổ
Trùng tu tôn kính đức linh thần
Bốn mùa tế lễ lưu kim cổ
Sáu xóm tâm thành nguyện cách tân
Lễ nghĩa khơi nguồn văn hóa mới
Phát huy truyền thống của làng Nhân./.
Ngày 01/01/2001
Tam giáp xây nền đặt Lý Nhân
Kiến tạo vọng thờ ngài bản thổ
Trùng tu tôn kính đức linh thần
Bốn mùa tế lễ lưu kim cổ
Sáu xóm tâm thành nguyện cách tân
Lễ nghĩa khơi nguồn văn hóa mới
Phát huy truyền thống của làng Nhân./.
Ngày 01/01/2001
Đêm trắng
(Kính tặng người vợ tảo tần)
Chúng mình yêu nhau
Từ thuở cháo rau
Nay con
Nay cháu
Bằng đầu
Mọi việc nhà
Trên vai em tất cả
Em mỏi mòn, rời rã
Anh vô tích sự đã nhiều
Nay anh về hưu
Lại càng vô tích sự
Thơ và lịch sử
Anh có biết ít nhiều
Anh lao vào việc đó
Đỡ em được bao nhiêu?
Nhưng tình yêu lại càng thắm thiết
Anh muốn chứng minh
Để em được biết
Nên đặt tình yêu lên một đĩa cân
Nhưng cân vẫn thăng bằng như thế
Bởi tình yêu là phi vật thể
Em ơi!
Đêm 01/4/2000
Chúng mình yêu nhau
Từ thuở cháo rau
Nay con
Nay cháu
Bằng đầu
Mọi việc nhà
Trên vai em tất cả
Em mỏi mòn, rời rã
Anh vô tích sự đã nhiều
Nay anh về hưu
Lại càng vô tích sự
Thơ và lịch sử
Anh có biết ít nhiều
Anh lao vào việc đó
Đỡ em được bao nhiêu?
Nhưng tình yêu lại càng thắm thiết
Anh muốn chứng minh
Để em được biết
Nên đặt tình yêu lên một đĩa cân
Nhưng cân vẫn thăng bằng như thế
Bởi tình yêu là phi vật thể
Em ơi!
Đêm 01/4/2000
Viếng Cụ Trần Tuyết Hữu
(vợ cụ Sáu)
Mất ngày 20/11 Canh Thìn (15/12/2000)
Dưới vòm đai thụ Tĩnh Tâm Trai
Phút chốc ra đi khóm bạch nhài
Hậu trường nâng khăn tình sớm tối
Tiền đường đàm đạo nghĩa hôm mai
Tàn y hãy giữ nguyên hơi ấm
Cổ kính xin đừng để bóng phai
Một nén tâm hương xin kính viếng
Phải chăng số mệnh đã an bài./.
Ngày 15/12/2000
Mất ngày 20/11 Canh Thìn (15/12/2000)
Dưới vòm đai thụ Tĩnh Tâm Trai
Phút chốc ra đi khóm bạch nhài
Hậu trường nâng khăn tình sớm tối
Tiền đường đàm đạo nghĩa hôm mai
Tàn y hãy giữ nguyên hơi ấm
Cổ kính xin đừng để bóng phai
Một nén tâm hương xin kính viếng
Phải chăng số mệnh đã an bài./.
Ngày 15/12/2000
Ngẫu hứng
Tiếp điện thoại xong lại phơi rơm
Mới hay thơ phú vẫn cần cơm
Nếu thơ thôi được cơm và áo
Chắc sẽ thanh tao, rất có hồn./.
Ngày 08/3/2000
Mới hay thơ phú vẫn cần cơm
Nếu thơ thôi được cơm và áo
Chắc sẽ thanh tao, rất có hồn./.
Ngày 08/3/2000
Một góc trung thu
Cảm xúc khi xem buổi ti vi phát về quận Đống Đa tổ chức
đêm trung thu cho các em lang thang cơ nhỡ
Đêm trung thu ở Quận
Với các em khó khăn
Vừa vui vừa cảm động
Một tối quên nhọc nhằn
Các em vui phá cỗ
Và được cho cả đèn
Mai lang thang hè phố
Đèn cất đâu? Các em!
Ngày 24/9/1999 (15/8 AL)
đêm trung thu cho các em lang thang cơ nhỡ
Đêm trung thu ở Quận
Với các em khó khăn
Vừa vui vừa cảm động
Một tối quên nhọc nhằn
Các em vui phá cỗ
Và được cho cả đèn
Mai lang thang hè phố
Đèn cất đâu? Các em!
Ngày 24/9/1999 (15/8 AL)
Tự Họa Bài “Thơ Là Duyên Nợ”
Tôi định tuyên ngôn dứt nợ thơ
Nhiều bài gửi họa nối đường tơ
Lại vương lại vấn, còn hoài bão
Còn nhớ, còn thương, lại ước mơ
Những tưởng thi đàn đà đóng chặt
Nào hay văn các mới cài hờ
Chắc là nghiệp chướng còn duyên nợ
Xin tạ lời vàng bạn họa thơ.
Ngày 15/06/1999
Nhiều bài gửi họa nối đường tơ
Lại vương lại vấn, còn hoài bão
Còn nhớ, còn thương, lại ước mơ
Những tưởng thi đàn đà đóng chặt
Nào hay văn các mới cài hờ
Chắc là nghiệp chướng còn duyên nợ
Xin tạ lời vàng bạn họa thơ.
Ngày 15/06/1999
Thơ Là Duyên Nợ
Một duyên hai nợ ấy là thơ
Sao vẫn vương vào mối nhện tơ
Phảng phất ý tình đêm khó ngủ
Mải mê vần điệu sáng còn mơ
Thơ không tuổi vì năng giao tiếp
Người hữu duyên sao khéo hững hờ
Nếu phải Xuân Hương thì thắm lại
Để cùng thanh thản với nàng thơ.
Ngày 05/06/1999
Sao vẫn vương vào mối nhện tơ
Phảng phất ý tình đêm khó ngủ
Mải mê vần điệu sáng còn mơ
Thơ không tuổi vì năng giao tiếp
Người hữu duyên sao khéo hững hờ
Nếu phải Xuân Hương thì thắm lại
Để cùng thanh thản với nàng thơ.
Ngày 05/06/1999
Lơ Thơ Tơ Liễu
Họa bài “Liễu với nhà thơ”
Liễu lả lơi buông suối tóc huyền
Hồ Tây soi bóng, bóng thề nghiêng,
Mắt ai lúng liếng cười trong nắng
Quân tử mơ màng trước nét duyên.
Thu đến càng không thể hững hờ
Liễu mong liễu đợi bóng hình thơ
Kiếm tìm năm tháng con thuyền vắng
Đăm đắm kìa ai vẫn đợi chờ.
Ngọc Bích (10/1999)
Liễu lả lơi buông suối tóc huyền
Hồ Tây soi bóng, bóng thề nghiêng,
Mắt ai lúng liếng cười trong nắng
Quân tử mơ màng trước nét duyên.
Thu đến càng không thể hững hờ
Liễu mong liễu đợi bóng hình thơ
Kiếm tìm năm tháng con thuyền vắng
Đăm đắm kìa ai vẫn đợi chờ.
Ngọc Bích (10/1999)
Tuần trăng mật muộn mằn
Trăng mật đôi ta quá muộn mằn
Bởi còn mải tính chuyện làm ăn
Bên hồ Đà Lạt không Than Thở
Trước biển Vũng Tàu giảm nếp nhăn
Đã đủ danh lam miền lục tỉnh
Còn thêm thắng cảnh đất Năm Căn
Cháu con phấn khởi, ông bà khỏe
Bốn bẩy năm sau, quá muộn mằn
Sài Gòn, 20/7/1999
Tặng Vợ Tôi
Viếng Mộ Thầy Giáo Tạ Doãn Thành
Thế là thầy đã đi xa
Mười năm mà tưởng như là mới đây
Công lao dạy dỗ của Thầy
Nén nhang tấc dạ hợp bầy kính dâng
Trồng cây, công việc mười năm
Trồng người sự nghiệp trăm năm mới thành
Thầy là gương sáng long lanh
Tu nhân tích đức để dành cháu con
Bước chân gian khổ đã mòn
Muối vừng, cơm nắm, áo sờn trường Đơ
Đã từng ngồi ghế gia sư
Đã từng thầy ký bên bờ vùng than
Từng thi “Pra-tích” Tuyên Quang
Và từng làm thợ tráng gương một thời
Kế sinh nhai, một vòng đời
Chiến tranh, Thầy trở về nơi quê nhà
Trồng người mấy chục năm qua
Từ vườn ươm đã kết hoa muôn màu
Thầy là mẫu mực thanh cao
“Thanh Tô thi tập” dạt dào văn phong
Tự hào trước tấm gương trong
Gia đình, con cháu một lòng phát huy
Lớp trò tung cánh bay đi
Vẫn thường canh cánh nghĩ về Thầy xưa
Nhưng nay Thầy đã đi xa
Chân dung Thầy đó, tưởng là còn đây
Nhớ công khai trí của thầy
Nén nhang cả lớp trò Thầy kính dâng./.
Đọc trước mộ thầy nhân ngày giỗ
lần thứ 10 (9/4/95)
Mười năm mà tưởng như là mới đây
Công lao dạy dỗ của Thầy
Nén nhang tấc dạ hợp bầy kính dâng
Trồng cây, công việc mười năm
Trồng người sự nghiệp trăm năm mới thành
Thầy là gương sáng long lanh
Tu nhân tích đức để dành cháu con
Bước chân gian khổ đã mòn
Muối vừng, cơm nắm, áo sờn trường Đơ
Đã từng ngồi ghế gia sư
Đã từng thầy ký bên bờ vùng than
Từng thi “Pra-tích” Tuyên Quang
Và từng làm thợ tráng gương một thời
Kế sinh nhai, một vòng đời
Chiến tranh, Thầy trở về nơi quê nhà
Trồng người mấy chục năm qua
Từ vườn ươm đã kết hoa muôn màu
Thầy là mẫu mực thanh cao
“Thanh Tô thi tập” dạt dào văn phong
Tự hào trước tấm gương trong
Gia đình, con cháu một lòng phát huy
Lớp trò tung cánh bay đi
Vẫn thường canh cánh nghĩ về Thầy xưa
Nhưng nay Thầy đã đi xa
Chân dung Thầy đó, tưởng là còn đây
Nhớ công khai trí của thầy
Nén nhang cả lớp trò Thầy kính dâng./.
Đọc trước mộ thầy nhân ngày giỗ
lần thứ 10 (9/4/95)
Tặng CLB thơ Thanh Trì
Trăm năm trong cõi người ta
Thơ sao vẫn trẻ không già thơ ơi!
Tình thơ lai láng bồi hồi
Ngày ngâm lục bát, đêm bài cổ thi
Với Câu lạc bộ Thanh Trì
Sao còn phải hỏi duyên gì hay không?
Từ khi lá thắm chỉ hồng
Mồng năm tháng chẵn một lòng đinh ninh
Lời ca Thịnh Liệt, Vĩnh Quỳnh.
ý thơ Đông Mỹ, nét tình Đại Kim
Khác nào đến hẹn đồi Lim
Để thơ Thanh Liệt đi tìm Lĩnh Nam
Tình thơ sao khéo đa đoan
Cũng thai cũng nghén như ngàn cỏ cây
Nâng niu tuyển tập đầu tay
Mà lòng đã chắc những ngày còn xanh
Lơ thơ tơ liễu buông mành
Đỗ Lưu ơi! Mệt thấm quanh Minh Hà
Đầu lòng mới một tố nga
Cự Minh cũng mỏi nữa là Văn Long
“Cày” trên từng chữ, từng dòng
Nên câu tuyệt diệu, ngụ trong tính tình
Nghĩ mình được dự bố kinh
Trông hoa đèn, những thẹn mình với ai
Lời quê chắp nhặt dông dài
Mua vui xin góp một bài đầu xuân./.
Tháng 12/12/1995
Thơ sao vẫn trẻ không già thơ ơi!
Tình thơ lai láng bồi hồi
Ngày ngâm lục bát, đêm bài cổ thi
Với Câu lạc bộ Thanh Trì
Sao còn phải hỏi duyên gì hay không?
Từ khi lá thắm chỉ hồng
Mồng năm tháng chẵn một lòng đinh ninh
Lời ca Thịnh Liệt, Vĩnh Quỳnh.
ý thơ Đông Mỹ, nét tình Đại Kim
Khác nào đến hẹn đồi Lim
Để thơ Thanh Liệt đi tìm Lĩnh Nam
Tình thơ sao khéo đa đoan
Cũng thai cũng nghén như ngàn cỏ cây
Nâng niu tuyển tập đầu tay
Mà lòng đã chắc những ngày còn xanh
Lơ thơ tơ liễu buông mành
Đỗ Lưu ơi! Mệt thấm quanh Minh Hà
Đầu lòng mới một tố nga
Cự Minh cũng mỏi nữa là Văn Long
“Cày” trên từng chữ, từng dòng
Nên câu tuyệt diệu, ngụ trong tính tình
Nghĩ mình được dự bố kinh
Trông hoa đèn, những thẹn mình với ai
Lời quê chắp nhặt dông dài
Mua vui xin góp một bài đầu xuân./.
Tháng 12/12/1995
Bệnh đời
Nhức nhối tim gan trước bệnh đời
Tham đầy, đạo lý lại càng vơi
Quan nha đục khoét toang ngân khố
Báo chí phanh phui hỏi thấu trời
“Hải Thượng” kê đơn còn bớt vị
“Bao Công” quyết án vẫn tùy thời?
Nhân dân từng chịu bao nghèo đói
Bọn mọt sâu này phải trị thôi./.
Ngày 17/4/1994
Tham đầy, đạo lý lại càng vơi
Quan nha đục khoét toang ngân khố
Báo chí phanh phui hỏi thấu trời
“Hải Thượng” kê đơn còn bớt vị
“Bao Công” quyết án vẫn tùy thời?
Nhân dân từng chịu bao nghèo đói
Bọn mọt sâu này phải trị thôi./.
Ngày 17/4/1994
Nghĩ Về Mảng Thơ Hưu
Có điều trăn trở với thơ hưu
Tuy ít người xem, viết khá nhiều
Đạo lý ngoài đời đang xuống cấp
Thơ tham gia chống được bao nhiêu?
Chưa tác dụng nhiều dễ hiểu thôi
Điều cần xây chống khắp nơi nơi.
Mà thơ vẫn quẩn bên thi hữu
Chưa đến được nhanh với mọi người.
Thơ hưu xem tựa lúa đại trà
Chuyên nghiệp là vườn đậm sắc hoa
Hãy đặt đại trà lên đúng mức
Thơ hưu tác dụng sẽ bay xa.
Nghiệp dư đâu phải ít thơ hay
Khương quế về già lại rất cay.
Cái đạo làm người cô đúc lại.
Tâm thơ minh bạch tựa ban ngày
Từ bài lục bát dạy răn con
Trào phúng vài vần thể ngũ ngôn
Đến cả thơ Đường đầy niêm luật
Chân quê nhưng rất đậm tâm hồn.
Bài thơ ví tựa vị thuốc hay
Nhiều bổ là thơ để dựng xây
Thêm tả để trừ phường bất nghĩa.
Xin thầy cứ bốc chớ nương tay.
Diện mảng thơ hưu rộng biết bao
Với hơn vạn xã, triệu “thi hào”
Một dòng lúa mới đang tầm chín
Hy vọng mùa thơ chất lượng cao!
Ngày 26/9/1994.
Tuy ít người xem, viết khá nhiều
Đạo lý ngoài đời đang xuống cấp
Thơ tham gia chống được bao nhiêu?
Chưa tác dụng nhiều dễ hiểu thôi
Điều cần xây chống khắp nơi nơi.
Mà thơ vẫn quẩn bên thi hữu
Chưa đến được nhanh với mọi người.
Thơ hưu xem tựa lúa đại trà
Chuyên nghiệp là vườn đậm sắc hoa
Hãy đặt đại trà lên đúng mức
Thơ hưu tác dụng sẽ bay xa.
Nghiệp dư đâu phải ít thơ hay
Khương quế về già lại rất cay.
Cái đạo làm người cô đúc lại.
Tâm thơ minh bạch tựa ban ngày
Từ bài lục bát dạy răn con
Trào phúng vài vần thể ngũ ngôn
Đến cả thơ Đường đầy niêm luật
Chân quê nhưng rất đậm tâm hồn.
Bài thơ ví tựa vị thuốc hay
Nhiều bổ là thơ để dựng xây
Thêm tả để trừ phường bất nghĩa.
Xin thầy cứ bốc chớ nương tay.
Diện mảng thơ hưu rộng biết bao
Với hơn vạn xã, triệu “thi hào”
Một dòng lúa mới đang tầm chín
Hy vọng mùa thơ chất lượng cao!
Ngày 26/9/1994.
Tự Họa
Về hưu để hưởng cảnh an nhàn
Vứt bỏ chuyện đời lắm trái ngang
Thanh bạch li trà thăm bạn cũ
Giao lưu thơ phú hội tao đàn
Vì con vì cháu lo răn dạy
Việc nước việc dân đỡ phải bàn
Kinh tế khó khăn, giàu đạo lý
Giữ lòng trong sáng ấy là sang./.
Tháng 01/1994
Vứt bỏ chuyện đời lắm trái ngang
Thanh bạch li trà thăm bạn cũ
Giao lưu thơ phú hội tao đàn
Vì con vì cháu lo răn dạy
Việc nước việc dân đỡ phải bàn
Kinh tế khó khăn, giàu đạo lý
Giữ lòng trong sáng ấy là sang./.
Tháng 01/1994
Vịnh miếu thổ kỳ
Trầm mặc ven sông miếu Thổ Kỳ
Soi dòng Tô Lịch ánh sao Khuê
Tôn thờ Vương mẫu ngời ân đức
Tưởng niệm Chu công sáng hậu thùy
“Nam quốc nho tôn” vang sử sách
Bắc phương lý học tuyệt văn thi
Sớ dâng thất trảm lưu muôn thuở
Bia đá, bảng vàng đậm khắc ghi./.
Tháng 09/1993
Soi dòng Tô Lịch ánh sao Khuê
Tôn thờ Vương mẫu ngời ân đức
Tưởng niệm Chu công sáng hậu thùy
“Nam quốc nho tôn” vang sử sách
Bắc phương lý học tuyệt văn thi
Sớ dâng thất trảm lưu muôn thuở
Bia đá, bảng vàng đậm khắc ghi./.
Tháng 09/1993
Từ lời những bài ca
“Có người lính ra đi từ mái tranh nghèo”
Tôi không thuộc lời các đoạn tiếp theo
Nhưng nghe bài ca sao lòng nhức nhối
Và “khi tên anh khắc vào vách núi”
Là lúc mẹ già ngóng đợi trên đê
Rồi “con đã ra đi từ đó không về”
Mẹ khóc thương con cạn dòng nước mắt
“Tấm áo năm xưa con thường vẫn mặc”
Vẫn định kỳ mẹ giặt lại cho con
“Đông Trường Sơn hay Tây Trường Sơn”
Sao giữ mãi những đứa con của mẹ
Sau mỗi chiều và mỗi ngày như thế
Mẹ vẫn bàng hoàng về cuộc chiến tranh
Càng nghiệm ra mọi giải pháp hòa bình
Bao giờ cũng đều là nhân là đạo
Mọi cuộc chiến tranh đều là tàn bạo
Hãy dập tắt đi các lò lửa chiến tranh
Hãy nâng niu từng cuộc sống mầm xanh
Để được có thêm nhiều “chùm khế ngọt”
Để rộng nữa những “con đường đi học”
Để đất nước mình “rợp bướm vàng bay”
Lời những bài ca vang vọng hôm nay
Là “đặc sản” trong thời kỳ vệ quốc./.
Ngày 27/3/1993
Tôi không thuộc lời các đoạn tiếp theo
Nhưng nghe bài ca sao lòng nhức nhối
Và “khi tên anh khắc vào vách núi”
Là lúc mẹ già ngóng đợi trên đê
Rồi “con đã ra đi từ đó không về”
Mẹ khóc thương con cạn dòng nước mắt
“Tấm áo năm xưa con thường vẫn mặc”
Vẫn định kỳ mẹ giặt lại cho con
“Đông Trường Sơn hay Tây Trường Sơn”
Sao giữ mãi những đứa con của mẹ
Sau mỗi chiều và mỗi ngày như thế
Mẹ vẫn bàng hoàng về cuộc chiến tranh
Càng nghiệm ra mọi giải pháp hòa bình
Bao giờ cũng đều là nhân là đạo
Mọi cuộc chiến tranh đều là tàn bạo
Hãy dập tắt đi các lò lửa chiến tranh
Hãy nâng niu từng cuộc sống mầm xanh
Để được có thêm nhiều “chùm khế ngọt”
Để rộng nữa những “con đường đi học”
Để đất nước mình “rợp bướm vàng bay”
Lời những bài ca vang vọng hôm nay
Là “đặc sản” trong thời kỳ vệ quốc./.
Ngày 27/3/1993
Cảm nghĩ về Thanh Trì
Theo dòng lịch sử huyện Thanh Trì
Tiềm ẩn bao điều lẽ thịnh suy
Thắng cảnh danh lam còn vang bóng
Một vùng trù phú phía ngoại vi.
Cá rô đầm Sét, vải làng Quang.
Bánh cuốn Thanh Trì, bún Pháp Vân
Cá Đám, rượu Ngâu đều đặc sản
Làng Đơ, khăn mặt lụa tơ tằm.
Danh nhân Tiền Lý: Phạm Đô Tu
Tiếp đến đời Trần, đức thánh Chu
Nguyễn Trãi, Ngô Thì theo phủ cũ
Hiện thời quê Bác Tổng bí thư.
Từ thuở xa xưa Huyện vốn nghèo
Giỏ cua làng Giả sống gieo neo
Ruộng đất nhà nông toàn cấy rẽ
Thân phận người dân quá bọt bèo.
Rồi cách mạng về rợp cờ bay.
Toàn dân vùng dậy diệt đồn Tây
Ngọc Hồi truyền thống cờ tung gió
Liên tục phong trào tiếp đến nay.
Một vành đai đỏ của Thủ đô
Khi Bác về thăm đã dặn dò
Toàn huyện từng ngày đang đổi mới
Nhà nhà đều thấy cảnh ấm no.
Các cụ bình thơ diễn hội thao
Phải chăng nét mới của phong trào
Văn vật ngàn năm đang nở rộ.
Mong rằng từng bước sẽ nâng cao
Từ huyện Thanh Đàm đất Thăng Long
“Địa linh nhân kiệt”ấy nghìn năm
Truyền thống bừng lên từ cách mạng
Xin góp vần thơ với tấm lòng
Ngày 01/09/1993
Tiềm ẩn bao điều lẽ thịnh suy
Thắng cảnh danh lam còn vang bóng
Một vùng trù phú phía ngoại vi.
Cá rô đầm Sét, vải làng Quang.
Bánh cuốn Thanh Trì, bún Pháp Vân
Cá Đám, rượu Ngâu đều đặc sản
Làng Đơ, khăn mặt lụa tơ tằm.
Danh nhân Tiền Lý: Phạm Đô Tu
Tiếp đến đời Trần, đức thánh Chu
Nguyễn Trãi, Ngô Thì theo phủ cũ
Hiện thời quê Bác Tổng bí thư.
Từ thuở xa xưa Huyện vốn nghèo
Giỏ cua làng Giả sống gieo neo
Ruộng đất nhà nông toàn cấy rẽ
Thân phận người dân quá bọt bèo.
Rồi cách mạng về rợp cờ bay.
Toàn dân vùng dậy diệt đồn Tây
Ngọc Hồi truyền thống cờ tung gió
Liên tục phong trào tiếp đến nay.
Một vành đai đỏ của Thủ đô
Khi Bác về thăm đã dặn dò
Toàn huyện từng ngày đang đổi mới
Nhà nhà đều thấy cảnh ấm no.
Các cụ bình thơ diễn hội thao
Phải chăng nét mới của phong trào
Văn vật ngàn năm đang nở rộ.
Mong rằng từng bước sẽ nâng cao
Từ huyện Thanh Đàm đất Thăng Long
“Địa linh nhân kiệt”ấy nghìn năm
Truyền thống bừng lên từ cách mạng
Xin góp vần thơ với tấm lòng
Ngày 01/09/1993
Trung Thu
Trung thu phá cỗ giữa sân trăng
Khách dự hôm nay có chị Hằng
Bánh trái thơm lừng, na ngọt lịm
Cam, xoài khát giọng, bưởi còn hăng
Ông vui các cháu ngày khôn lớn
Cháu chúc ông bà sức khỏe tăng
Ngày một tháng mười, rằm tháng Tám
Tre già ấm bụi bởi nhiều măng
Trung thu Quý Dậu
Năm 1993
Khách dự hôm nay có chị Hằng
Bánh trái thơm lừng, na ngọt lịm
Cam, xoài khát giọng, bưởi còn hăng
Ông vui các cháu ngày khôn lớn
Cháu chúc ông bà sức khỏe tăng
Ngày một tháng mười, rằm tháng Tám
Tre già ấm bụi bởi nhiều măng
Trung thu Quý Dậu
Năm 1993
Chiều Xuân Viếng Mộ
Chiều xuân ra viếng mộ phần
Trước mồ u hiển, tần ngần lệ sa
Năm ngôi bảo tích của nhà
Cụ, ông bà, với mẹ cha vĩnh trường
Bùi ngùi, lặng lẽ, buồn thương
Cúi đầu thổn thức, vấn vương lòng sầu
Chân trời góc bể bấy lâu
Vẫn hằng da diết, khắc sâu hình hài
Quá khứ, hiện tại, tương lai
Mộ phần là cả tượng đài tâm linh
Đời đời con cháu đinh ninh
Ơn sâu nghĩa nặng thâm tình là đây
Sông kia có lúc vơi đầy
Thương ông bà, nhớ mẹ thầy không quên
Công cha nghĩa mẹ khôn đền
Chỉ xin ghi khắc sâu bền trong tim
Linh phần vắng lặng im lìm
Mà lòng xao xuyến nổi chìm xót xa.
Ước gì u hiển hiện ra
Để con thấy cụ, ông bà, thầy u
Quanh vùng vẫn lặng như ru
Bỗng nghe tiếng mẹ vọng từ đâu đây
Một làn gió thoảng hây hây
Ở trong dường có hương bay ít nhiều
Thấu lòng con viếng mộ chiều
Bờ lau xào xạc những điều tâm linh./.
Bác Hoán + V.HQ
Chiều 8/Giêng (30/1/1993)
Chiều Tà Bên Sông
“Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng”
Ôi! Mẹ hiền tôi còn hơn thế
Bốn con nhưng lại nặng việc đồng.
“Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng”
Người vợ hiền tôi là bóng mẹ
Sáu con, càng lặn lội bờ sông.
Rồi đến con tôi đã lấy chồng
Nửa phần công tác, nửa nhà nông
Giao thời kinh tế càng phân hóa
Lại một đời rau cỏ bên sông./.
Chiều 05/09/1993
Nuôi đủ năm con với một chồng”
Ôi! Mẹ hiền tôi còn hơn thế
Bốn con nhưng lại nặng việc đồng.
“Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng”
Người vợ hiền tôi là bóng mẹ
Sáu con, càng lặn lội bờ sông.
Rồi đến con tôi đã lấy chồng
Nửa phần công tác, nửa nhà nông
Giao thời kinh tế càng phân hóa
Lại một đời rau cỏ bên sông./.
Chiều 05/09/1993
Quê Nhà
Thanh Liệt quê nhà đất cố hương
Về hưu, cùng Họ sửa từ đường
Bốn trăm năm cũ, bao truyền thống
Mười sáu đời nay sống kỷ cương
Người viết sử làng, từng chủ bút
Thi đàn Đất Việt, giới văn chương
Gia đình hiếu học, nhà văn hóa
Thành phố vinh danh, huyện biểu dương.
Xuân 1992.
Về hưu, cùng Họ sửa từ đường
Bốn trăm năm cũ, bao truyền thống
Mười sáu đời nay sống kỷ cương
Người viết sử làng, từng chủ bút
Thi đàn Đất Việt, giới văn chương
Gia đình hiếu học, nhà văn hóa
Thành phố vinh danh, huyện biểu dương.
Xuân 1992.
Quê hương Thanh Liệt
Gương nước sông Tô, đậm bóng làng
Long lanh phản chiếu sử ngàn trang
Ngoài biên Phạm tướng bình Lương tặc
Nội chính Chu thần chống thất gian
Dân trí mọi thời đều phát triển
Cảnh làng ngày một vẻ khang trang
Tự hào biết mấy người Thanh Liệt
Tình nghĩa đậm đà vị vải Quang././
Ngày 06/01/1991
Long lanh phản chiếu sử ngàn trang
Ngoài biên Phạm tướng bình Lương tặc
Nội chính Chu thần chống thất gian
Dân trí mọi thời đều phát triển
Cảnh làng ngày một vẻ khang trang
Tự hào biết mấy người Thanh Liệt
Tình nghĩa đậm đà vị vải Quang././
Ngày 06/01/1991
Tam Quan Chùa Nội
Chỉ một tam quan, một bóng đề
Đã là chùa Nội, đã là quê
Cửa chùa, điểm nghỉ bao mùa lúa
Cầu Hóp dừng chân chẳng muốn về
Công đức trùng tu quang cảnh Phật
Phương danh ghi tạc giữa lòng bia
Đường vào cõi Phật từ đâu nhỉ
Hãy đến tam quan rợp bóng đề./.
Ngày 07/9/1990
Đã là chùa Nội, đã là quê
Cửa chùa, điểm nghỉ bao mùa lúa
Cầu Hóp dừng chân chẳng muốn về
Công đức trùng tu quang cảnh Phật
Phương danh ghi tạc giữa lòng bia
Đường vào cõi Phật từ đâu nhỉ
Hãy đến tam quan rợp bóng đề./.
Ngày 07/9/1990
Thơ viếng một cụ chuyên nghề tổ tôm
Thương Cụ một đời vận Đỏ Đen
Thuốc Thang là vậy thiếu Chi tiền
Thuyền Tình những tưởng Hoa đào nở
Thất ý rong chơi chốn Cửu tuyền
Xoay mãi cây bài, mong Lục Sách
Cháu Chờ, nghĩa tử Phỗng tay trên
Hội này thôi cũng ngoài Bát thập
Ba Vạn sáu ngàn, giấc mộng Tiên.
8/1989
Thuốc Thang là vậy thiếu Chi tiền
Thuyền Tình những tưởng Hoa đào nở
Thất ý rong chơi chốn Cửu tuyền
Xoay mãi cây bài, mong Lục Sách
Cháu Chờ, nghĩa tử Phỗng tay trên
Hội này thôi cũng ngoài Bát thập
Ba Vạn sáu ngàn, giấc mộng Tiên.
8/1989
Chùa Quan Âm
Thắng cảnh chùa Quang đẹp tuyệt vời
Tam quan soi bóng nước đầy vơi
Thâm nghiêm tam bảo đầy hương khói
Chuông lắng chiều hôm đổ mấy hồi
Lễ hội tưng bừng già trẻ lại
Dâng hương kính cẩn động lòng người
Phật đài tỏa chiếu muôn điều thiện
Nhịp mõ hồi chuông cảnh tỉnh đời./.
Hội chùa 14/5/1989
Tam quan soi bóng nước đầy vơi
Thâm nghiêm tam bảo đầy hương khói
Chuông lắng chiều hôm đổ mấy hồi
Lễ hội tưng bừng già trẻ lại
Dâng hương kính cẩn động lòng người
Phật đài tỏa chiếu muôn điều thiện
Nhịp mõ hồi chuông cảnh tỉnh đời./.
Hội chùa 14/5/1989
Lạng Sơn - Một Đoạn Đời
Chuyển về công tác miền xuôi
Bâng khuâng nhớ cảnh nhớ người Lạng Sơn
Non cao sương phủ mây vờn
Chiều chiều khói tỏa chập chờn bản xa
Suối reo róc rách quanh nhà
Tắc kè báo nắng hay là gọi mưa
Cơ quan mươi dẫy nhà thưa
Người đi Bản Lếch, người chờ Gốc Me
Ở đây thời tiết khắt khe
Một ngày đêm, đủ Xuân - Hè - Thu - Đông
Tình người gắn bó mặn nồng
Thủy chung tha thiết sáng trong một thời
Dù cho vật đổi sao dời
Quên sao tình nghĩa những người thân quen
Một lời hỏi nhỏ của em
Chắc gì anh sẽ còn lên với rừng?
Anh ơi chua ngọt đã từng
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau
Lời ai da diết nghẹn ngào
Để ai ngây ngất vì đào Lạng Sơn./.
Xuân 1977
Tết Toàn Rau
Đề thơ Cần viết vận toàn rau
Hợp với mình chuyên Cải thiện rau
Đã trải Mùi sang, khinh thịt cá
Từng qua cảnh Bí trọng dưa rau
Đời xơ xác Mướp bòn từng quả
Nghèo rớt Mồng Tơi bạn với rau
Món nợ văn chương hành sớm tối
Su Hào nhẵn túi, tết toàn rau.
03/02/1977
Hợp với mình chuyên Cải thiện rau
Đã trải Mùi sang, khinh thịt cá
Từng qua cảnh Bí trọng dưa rau
Đời xơ xác Mướp bòn từng quả
Nghèo rớt Mồng Tơi bạn với rau
Món nợ văn chương hành sớm tối
Su Hào nhẵn túi, tết toàn rau.
03/02/1977
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)